Thông tin

Thứ ba, 05 Tháng 5 2009 13:30

Ngày 29/04/2009, Bộ Y tế vừa ban hành Quyết định số 1440/QĐ-BYT về việc ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và phòng lây nhiễm cúm lợn A (H1N1) ở người”.

Thứ ba, 05 Tháng 5 2009 02:00

Quy trình rửa tay thường quy

Chi tiết tài liệu download tại đây.

Thứ hai, 04 Tháng 5 2009 15:48

Tài liệu có thể tải về tại đây

Chủ nhật, 05 Tháng 4 2009 17:29

Bộ Y tế gửi thư cho chủ tịch các UBND về việc tăng cường phòng chống H1N1.

Thư mời có thể được lấy ở đây.

Thứ năm, 16 Tháng 10 2008 13:33

Tác giả: BS. Hồ Việt Mỹ.
Đồng tác giả: ThS. Lê Quang Hùng.
Đơn vị công tác: Sở Y tế Bình Định.
Ngày tạo ra giải pháp: 2003-2004.
Đạt giải: Giải Khuyến khích.

 

Ở Việt Nam nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện là vấn đề hết sức bức xúc của ngành y tế, gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế cho người bệnh, làm gia tăng tình trạng kháng thuốc kháng sinh trong bệnh viện, tăng sản sinh các chủng vi khuẩn kháng thuốc, tăng chi phí điều trị.

Vì vậy, việc xây dựng quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện đóng một vai trò hết sức quan trọng trong công tác kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện vì đây sẽ là cẩm nang cho nhân viên y tế thực hiện công tác phòng chống nhiễm khuẩn, là tiêu chí để đánh giá các quy trình kỹ thuật trên phương diện kiểm soát nhiễm khuẩn.


* MÔ TẢ GIẢI PHÁP:

 

1. Tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện:


- Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh biện (NKBV) tại bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh là 7,2% năm 2003 và 6,1% năm 2004. Tại bệnh viện đa khoa khu vực (BVĐKKV) Bồng Sơn năm 2003 tỷ lệ này là 9,4% và năm 2004 là 7,3%. Như vậy tỷ lệ NKBV của các bệnh viện năm 2004 đều giảm hơn so với năm 2003 nhưng sự khác biệt không lớn.
- Các khoa có tỷ lệ NKBV cao là khoa Nhi, Ngoại, Hồi sức cấp cứu. Điều này là phù hợp vì tại các khoa này tập trung nhiều người bệnh nặng, nằm lâu, thực hiện nhiều thủ thuật xâm lấn, người bệnh thường có các bệnh kèm theo hoặc có tình trạng suy giảm miễn dịch.
- Nhiễm khuẩn thường hay gặp nhất là nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới 37,5% và 39,6%, kế đến là nhiễm khuẩn vết mổ 15,9% và 21,7%.

- Áp dụng theo tiêu chuẩn chẩn đoán của CDC (Trung tâm kiểm soát bệnh tật) tiến hành chia nhiễm khuẩn vết mổ thành 3 loại : nông, sâu và cơ quan/khoang cơ thể.
- Nhiễm khuẩn da và mô mềm cũng là nhiễm khuẩn thường gặp (15,9% và 13,0%).
- Khi so sánh tỷ lệ NKBV theo nhóm tuổi cho thấy tỷ lệ ở trẻ em cao hơn so với người lớn (12% so với 5,7%) với OR = 2,1b (OR tỷ số chênh); Ở nhóm tuổi người lớn thì lứa tuổi bị NKBV cao nhất là từ 80 tuổi trở lên (14,8%).
- Người bệnh thực hiện thủ thuật xâm lấn có nguy cơ NKBV cao hơn người không thực hiện thủ thuật xâm lấn (OR = 6,76, p < 0,05).


2. Giám sát kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện:


- Tất cả các khoa đều có sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh trong không khí. Khoa Phẫu thuật - Gây mê hồi sức, Ngoại thần kinh - Cột sống là những nơi có sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh cao.
- Các chủng vi khuẩn phân lập được trong không khí là: S. Aureus 45,8%, trực khuẩn gram âm 38,3%, trực khuẩn gram âm đường ruột (E.coli: 4, Klebsiella sp: 3, Enterobacter sp: 1) (không sinh men), Pseudomonas.sp và P. Aeruginosa chiếm 20,83%.
- Đối với dụng cụ y tế tại BVĐK tỉnh tỷ lệ đạt vô khuẩn của các dụng cụ là 57,8%, đặc biệt các dụng cụ đã hấp vô trùng được dùng trong phòng mổ, dùng để thay băng, dụng cụ hấp trong phòng thanh trùng.
- Hồi sức cấp cứu nội, Nhi (sơ sinh và cấp cứu), Khoa sản (phòng sinh) là những nơi có sự hiện diện của vi khuẩn trên các dụng cụ y tế.
- Tại BVĐKKV Bồng Sơn, tỷ lệ vô khuẩn của dụng cụ là 61,5% năm (2003),và 76,9% năm (2004), các vikhuẩn phân lập được là nhóm Psedomonas sp, E. coli (ESBL +), Acinetobacter.sp chiếm 15,4% (có trong lồng ấp của trẻ sơ sinh, đầu ống hút đàm). Việc xuất hiện chủng E.coli có sinh men ESBL là hết sức nguy hiểm vì đây là vi khuẩn đa kháng sinh, nếu gây NKBV thì rất khó điều trị.
- Tần suất vi khuẩn phân lập được ở tay nhân viên y tế cho thấy tỷ lệ vô khuẩn của tay nhân viên y tế chỉ đạt 37,8%, tỷ lệ vô khuẩn gây bệnh có trên tay nhân viên y tế là 13,4%. Vi khuẩn gây bệnh là trực khuẩn đường ruột gram âm là loại chiếm ưu thế 56,6%, trong đó phổ biến là Klebsiella. sp với

tần suất xuất hiện là 7/11 lần. Ngoài ra còn gặp Chromobacter với tần suất
1/11. Đứng sau trực khuẩn đường ruột gram âm là P. aeruginosa chiếm 34,78%. Nhờ sự cải thiện về các bồn rửa tay, khăn tay và công tác giám sát thường xuyên nên thời điểm cuối năm 2004 không phân lập được vi khuẩn gây bệnh trên tay nhân viên y tế.
- Taycủa nhân viện y tế là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn bệnh viện, nếu nhân viên y tế không thực hiện việc rửa tay đúng quy trình thì họ sẽ chính là những người mang vi khuẩn gây bệnh từ người bệnh này sang người bệnh khác.
- Kết quả kiểm tra mẫu nước y tế tại 2 bệnh viện cho thấy: Năm 2003 mẫu nước tại BVĐKKV Bồng Sơn không có vi khuẩn gây bệnh, năm 2004 các mẫu nước ngâm dây máy hút, rửa tay, nước tắm bé lấy từ xô đựng nước của cả 2 bệnh viện (nước cất dùng làm ẩm bình ôxy, ngâm dây thở, hút đàm) đều bị nhiễm P. aeruginosa và Pseudomonas sp.
- Hai loại vi khuẩn gây bệnh trong mẫu nước chủ yếu là P. aeruginosa (71,4%) và trực khuẩn đường ruột gram âm (28,6%).

* HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI:

 

- Qua hơn 1 năm triển khai và áp dụng kết quả cho thấy: Tỷ lệ người bệnh nhiễm khuẩn giảm từ 7,7% năm 2003 xuống còn 6,4% năm 2004.
- Giảm tần suất xuất hiện các vi khuẩn gây bệnh trong bệnh viện: E.Coli, Pseudomonas, tụ cầu vàng đã giảm trên tay nhân viên y tế, dụng cụ y tế, mẫu nước, không khí. Điều này sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cho người bệnh.

Thứ năm, 16 Tháng 10 2008 12:57

Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) năm 2005 trên toàn quốc đã giảm xuống còn 5,7%. Hà Nội là nơi duy nhất có tỷ lệ nhiễm khuẩn thấp nhất từ 3-4%.

Ngày 29/12, Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị Tổng kết và báo cáo khoa học về chống nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV). 

Nhiễm khuẩn tại bệnh viện đang gây ra những hậu quả nặng nề, làm kéo dài thời gian điều trị, tăng chi phí cho chăm sóc sức khoẻ.Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới tử vong.

Theo kết quả điều tra của Vụ Điều trị (Bộ Y tế) thì năm 2001 tỷ lệ NKBV hiện  là 6,8%.Hiện nay có 94% bệnh viện tuyến trung ương có Khoa chống nhiễm khuẩn và 97% các bệnh viện đó có Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn.

Bộ Y tế đã đề ra nhiệm vụ phát triển cụ thể như: Sớm thành lập Hiệp hội kiểm soát nhiễm khuẩn quốc gia, vùng; Kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, nhân sự chống nhiễm khuẩn phù hợp với các cơ sở y tế; xây dựng hệ thống giám sát quốc gia về NKBV.

Th.Hà

Thứ năm, 16 Tháng 10 2008 12:28

Mục tiêu nhằm đánh giá kết quả ban đầu của phương pháp nong Maloney – Tucker trong điều trị và dự phòng hẹp thực quản sau mổ tái tạo thực quản ở trẻ em. Từ tháng 4 đến tháng 9/2007, có 5 bệnh nhi bị hẹp thực quản sau mổ tạo hình thực quản được nong thực quản bằng bộ nong Maloney – Tucker. Kết quả nong tốt, không biến chứng. Số ngày nằm viện trung bình là 3 ngày. Không sử dụng kháng sinh. Chi phí điều trị 1.000.000đ/trường hợp. Nghiên cứu này cho thấy phương pháp nong Maloney – Tucker đơn giản, an toàn và hiệu quả trong điều trị và dự phòng biến chứng hẹp thực quản sau mổ tạo hình thực quản ở trẻ em.

BS Trần Thị Kim Chi

Trang