Thứ bảy, 21 Tháng 8 2021 16:08
Cập nhật đến 16g00, ngày 21/08/2021.
 
Nguồn: Bộ Y tế & Worldometers
 
Tình hình diễn tiến dịch tại Việt Nam:
Số ca mắc (Confirmed cases) Số ca tử vong (Deaths) Số mũi tiêm (Vaccinations)

 

 

 

Thứ năm, 19 Tháng 8 2021 15:40

GIỚI THIỆU VỀ VACCINE COVID-19

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tính đến cuối năm 2020 đã có hơn 200 vaccine cho COVID-19 đang được phát triển. Trước khi được thử nghiệm trên người, các vaccine này đều cần phải được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên mô hình động vật; chỉ khoảng 7/100 vaccine được xem là đảm bảo điều kiện, sau đó mới được tiếp tục thử nghiệm lâm sàng trên người. Sau thử nghiệm lâm sàng, khoảng 1/5 loại vaccine được xem là thành công.

Tính đến ngày 19/7/2021, Bộ Y tế Việt Nam đã phê duyệt có điều kiện cho nhu cầu cấp bách trong phòng chống dịch đối với 06 loại vaccine: [1] Vaxzevria (AstraZeneca), [2] Comirnaty (Pfizer-BioNTech), [3] Spikevax (Moderna), [4] Vero Cell (Sinopharm), [5] Sputnik V, [6] COVID-19 Vaccine Janssen (Johnson & Johnson).

Một vaccine tiềm năng được nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam là Nanocovax (Nanogen) mặc dù chưa được cấp phép khẩn cấp bởi Bộ Y tế (tính đến 2/8/2021) vì cần có thêm những chứng cứ khoa học về tính an toàn và hiệu quả. Mặc dù vậy, nghiên cứu pha 1 và pha 2 đối với loại vaccine này đã cho thấy những kết quả khả quan. Việc tiêm thử nghiệm mũi 2 ở pha 3 cho tất cả các tình nguyện viên (khoảng 13.000 người) ước tính đã hoàn tất vào khoảng giữa tháng 08/2021.

 

CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA VACCINE COVID-19

Các vaccine COVID-19 hiện tại được sản xuất chủ yếu theo 4 cơ chế sau:

 

Vaccine chứa toàn bộ virus

Vero Cell (Sinopharm)

Virus được làm suy yếu (bằng cách luân chuyển qua động vật hay tế bào người tới khi chúng thu nhận nhiều đột biến làm cho không thể gây bệnh được) hoặc bất hoạt hoàn toàn (dùng hoá chất như formaldehyde hoặc nhiệt độ) nên không có khả năng gây bệnh.

Vaccine dựa vào protein

Nanocovax (Nanogen)

Protein sau khi được chiết lấy từ virus (sống hoặc bất hoạt) được tinh chế và tạo thành vaccine. Đối với virus Corona, loại protein này thường là protein spike. Hạt giống virus (virus-like-particles) là những lớp vỏ virus rỗng bắt chước cấu trúc của virus SARS-CoV-2 nhưng không lây nhiễm bởi chúng không có vật liệu di truyền. Các hạt giống virus này cũng hoạt động theo cơ chế tương tự.

Vaccine chứa vector virus

- Vaxzevria (AstraZeneca)
- Sputnik V
- COVID-19 Vaccine Janssen (JnJ)

Đoạn gen tạo protein kháng nguyên được chèn vào một loại virus khác (gây nhiễm ở người nhưng không gây bệnh). Loại virus an toàn này có thể nhân bản (ví dụ virus sởi đã làm suy yếu) hoặc không thể nhân bản (ví dụ adenovirus) trong cơ thể người và hoạt động như một nền tảng hoặc một vector - cung cấp loại protein của virus Corona. Protein này kích hoạt đáp ứng miễn dịch cho cơ thể.

Vaccine acid nucleic

- Spikevax (Moderna)
- Comirnaty (Pfizer-BioNTech)

Sử dụng vật liệu di truyền (DNA hay RNA) của protein của virus Corona để tạo phản ứng miễn dịch. Vật liệu di truyền được đưa vào trong tế bào người sẽ tạo ra những protein của virus. Hầu hết các Vaccine này sử dụng protein spike của SARS-CoV-2.

 

TÓM TẮT

Nguồn tham khảo: Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM

Thứ tư, 18 Tháng 8 2021 17:37

Trước đây, TP.HCM xây dựng tháp điều trị COVID-19 với 5 tầng điều trị, hiện nay mô hình tháp đã được rút gọn còn 3 tầng. Chiến lược này dự kiến sẽ đem lại nhiều hiệu quả trong điều trị COVID-19.

Công tác điều trị bệnh nhân COVID-19, thành phố tuân thủ theo hướng dẫn của Bộ Y tế trên cơ sở phù hợp tình hình thực tế để đảm bảo năng lực y tế hiện tại nhằm đạt kết quả tốt nhất.

 

 

Thứ bảy, 14 Tháng 8 2021 16:07
Cập nhật đến 16g00, ngày 14/08/2021.
 
Nguồn: Bộ Y tế & Worldometers
 

 

Thứ bảy, 14 Tháng 8 2021 10:05

 

BUỔI 1 Khai mạc - Cập nhật dịch tễ và chính sách

Presentaion 1  

Presentaion 2  

Videoclip 1

Videoclip 2 

Videoclip toàn buổi 1

BUỔI 2 Phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) và Các bài học từ không tuân thủ thực hành Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn quan sát được

Presentaion 1  

Presentaion 2  

Videoclip 1

Videoclip 2 

Videoclip toàn buổi 2

BUỔI 3 Thông khí

Presentaion 1  

Presentaion 2  

Videoclip 1

Videoclip 2 

Videoclip toàn buổi 3

BUỔI 4 Xét nghiệm

Presentaion 1  

Presentaion 2 

Presentaion 3 

Videoclip 1

Videoclip 2 

Videoclip 3

Videoclip toàn buổi 4

BUỔI 5 Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn trong tiêm chủng

Presentaion 1  

Presentaion 2  

Videoclip 1

Videoclip 2 

Videoclip toàn buổi 5

BUỔI 6 Vệ sinh môi trường - xử lý dụng cụ

Presentaion 1  

Presentaion 2  

Videoclip 1

Videoclip 2 

Videoclip toàn buổi 6

BUỔI 7 Quản lý nguồn lực chống dịch - Tổng kết

Presentaion 1  

Presentaion 2  

Videoclip 1

Videoclip 2 

 

HICS HICS

Thứ bảy, 07 Tháng 8 2021 15:58
Cập nhật đến 16g00, ngày 07/08/2021.
 
Nguồn: Bộ Y tế & Worldometers
 

 

Thứ bảy, 07 Tháng 8 2021 15:16

Vào ngày 1/5/2020, FDA (Mỹ) cho phép sử dụng Remdisivir trong điều trị những trường hợp  nhiễm COVID-19 nặng (ca xác định hoặc nghi ngờ) ở người lớn và trẻ em, thuốc chỉ được sử dụng trong điều

trị nội trú.

 

Trước đó, Remdesivir đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng đối với bệnh nhiễm vi-rút Ebola nhưng cho hiệu quả lâm sàng còn hạn chế, và tiếp tục được nghiên cứu trong các mô hình động vật đối với SARS-CoV và MERS-CoV.

 

Remdesivir là một loại thuốc kháng vi-rút phổ rộng do công ty dược phẩm sinh học Gilead Sciences phát triển. Đó là một loại thuốc tương tự adenosine nucleoside, được cho dùng theo đường tĩnh mạch dưới dạng một tiền chất (tiền thuốc), nhanh chóng xâm nhập vào các tế bào đích. Tại đó, thuốc được chuyển đổi thành một chất chuyển hóa nucleoside triphosphate có hoạt tính, được tích hợp vào chuỗi RNA của vi rút mới sinh trong tế bào chủ. Thuốc dẫn đến việc chấm dứt sớm quá trình tổng hợp RNA của vi rút bằng cách ức chế RNA polymerase phụ thuộc RNA. Liều dùng một lần mỗi ngày cho nồng độ thuốc có hoạt tính được duy trì liên tục trong tế bào. Không rõ dược động học của remdesivir trên bệnh nhân bị bệnh nặng, hoặc trên bệnh nhân bị suy thận hoặc suy gan và bất kỳ lần điều chỉnh liều lượng cần thiết nào. Thời gian sử dụng thuốc cho một đợt điều trị là 10 ngày.

 

Remdisivir được đánh giá dựa trên một phân tích dữ liệu từ một công trình nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát với 1.063 bệnh nhân, bắt đầu vào ngày 21/2. Nghiên cứu này còn được gọi là Thử nghiệm điều trị COVID-19 thích nghi (Adaptive COVID-19 Treatment Trial - ACTT) được tài trợ bởi Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIAID) – Mỹ. Đây là thử nghiệm lâm sàng đầu tiên tại Mỹ nhằm đánh giá một phương pháp điều trị thử nghiệm cho COVID -19. Người đầu tiên tham gia thử nghiệm này là một người Mỹ vừa được trở về nước sau khi bị cách ly trên tàu du lịch Diamond Princess cập cảng ở Yokohama, Nhật Bản và đã tình nguyện tham gia nghiên cứu tại địa điểm nghiên cứu đầu tiên - Trung tâm Y tế Đại học Nebraska / Nebraska Medicine vào tháng 2/2020. Tổng cộng có 68 địa điểm cuối cùng đã tham gia vào nghiên cứu của 47 tại Mỹ và 21 tại các quốc gia ở Châu Âu và Châu Á.

 

 

 

Ban giám sát an toàn và dữ liệu độc lập (Data and Safety Monitoring Board DSMB) đã họp vào ngày 27/4 để xem xét dữ liệu và chia sẻ phân tích tạm thời của họ với nhóm nghiên cứu. Dựa trên đánh giá dữ liệu, họ lưu ý rằng remdesivir tốt hơn giả dược về thời gian phục hồi, một dữ liệu đánh giá thường được sử dụng trong các thử nghiệm cúm. Tình trạng phục hồi trong nghiên cứu này được thiết kế phù hợp, khi đó bệnh nhân có thể xuất viện hoặc trở lại mức hoạt động bình thường. Kết quả sơ bộ của công trình nghiên cứu chỉ ra rằng những bệnh nhân sử dụng remdesivir có thời gian phục hồi nhanh hơn 31% so với những người dùng giả dược (p <0,001). Cụ thể, thời gian trung bình để phục hồi là 11 ngày đối với bệnh nhân được điều trị bằng Remdesivir so với 15 ngày đối với những người dùng giả dược. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ tử vong là 8,0% đối với nhóm nhận Remdesivir so với 11,6% đối với nhóm giả dược (p = 0,059).

Tóm lại, các nghiên cứu trên mô hình COVID-19 linh trưởng không phải trên người đã ghi nhận remdesivir có thể làm (1) giảm quá trình sao chép của vi rút ở phổi và (2) cải thiện tình trạng bệnh lý ở phổi, nếu được cho dùng sớm trong quá trình nhiễm bệnh.

 

 

Nguồn: Sở Y tế, MSD Manual

 

 

 

 

 

 

Trang